Snack's 1967
Wap Game | Tiện Ích | Goldmobile.wap.sh

Mệ có nghề mới là bán bánh rán thịt. Mệ có một cái xe bằng gỗ, thấp, có bốn bánh. Chiếc xe kéo này do anh Ủy khi còn khỏe mạnh làm cho mệ. Giờ đây, mệ sắp bánh rán chiên dòn vô trong cái thúng, trên những miếng lá chuối rồi ủ bằng bao bố. Khi thanh niên, phụ nữ họp nhảy sôn-đố-mì, hay sau khi màn kịch ông Tây thực dân bị các anh du kích Việt Minh bắt trói, quỳ lạy, thì dân làng cười thôi là cười, vì vai đóng ông tây vào phút cuối lúc nào cũng rớt mũ giấy, rơi râu bắp, lòi ra mặt một chị bán cá hay vợ ông chủ tịch mới được bầu. Cười xong là đói bụng phải ăn. Những chiếc bánh rán thịt rắn của mệ Ủy vừa dòn vừa thơm phức, hạp khẩu lắm.
Trò nam nữ sôn đố mì đêm đêm quả là cách mạng thật. Độc lập tự do có khác, mấy cô tha hồ cho cái bụng phồng lên mà không còn sợ cảnh bị gọt đầu bôi vôi dẫn đi rêu rao khắp làng như thời phong kiến trước. Đêm đêm tha hồ tạp vô nhau.
Nhưng cũng trong đêm, nhiều nhà có tí máu mặt ở Cửa Thuận bị đập cửa, những kẻ tình nghi Việt Gian bị bịt mắt đưa đi. Sau những đêm sôn đố mì, sáng ra trên đường làng thường có cảnh thây người bị cưa ba khúc, đầu bị chặt rời bỏ vô một cái nón rách kèm theo tờ giấy ghi bản án tràng giang đại hải. Chẳng hiểu chữ nghĩa đâu ra mà lắm vậy. Dân Cửa Thuận thời này, cả những kẻ vừa bị chặt đầu, vốn ít người biết đọc.
Trấn Hải Đài nay đã là cơ sở cách mạng. Cũng giống thời Tây mới chiếm thành, cái hầm dê trong thành nghe đâu lại là nơi tập trung bọn Việt gian để hành hình tập thể.
Chẳng hiểu Việt Minh làm gì trong Trấn Hải Đài. Trụ sở Uỷ Ban Cách Mạng, đặt ở cái Lầu nghỉ mát của Vua hồi xưa ở sau rừng dương. Chính từ đây, phong trào đòi nợ địa chủ được phát động.
Giàu nhứt trong làng, có trâu, có ruộng, có chục ghe chài cho mướn là ông Hội Thượng. Kế đó, địa chủ thứ hai phải kể là Ông Trùm Trít, có lưới bán, lưới cho thuê, buồm, giây cột, chèo gỗ để phục vụ ngành chài lưới.
Chẳng hiểu vì sao mệ Uỷ bỗng trở thành người dẫn đầu đám bần cố nông đi hỏi tội địa chủ. Con nít trong làng không thiếu mặt, bu coi, sắp một dãy dài phía sau như đi hội làng.
Nhà ông Hội Thượng có sân lớn để phơi lúa. Đoàn người phá cổng rào, tràn vào trong sân. Một người la:
"Địa chủ hút máu nhân dân."
"Hút máu nhân dân"
Một chục người la, một trăm người la. Con nít chen chúc nhau, vừa la vừa chọi đá vô hai cánh cửa đóng im ỉm.
"Kéo đầu thằng địa chủ ra đây."
Anh du kích vác súng, nhưng không lấy xuống, vẫn trên vai, mỉm cười:
"Cách mạng sẽ không tha cho bọn hút máu nhân dân, ăn trên đầu trên cổ nhân dân."
Một ông hô:
"Phá cửa. Bắn nát đầu địa chủ bóc lột hãm hiếp..."
Không đợi dứt câu, nhiều người đồng thanh la:
"Hãm hiếp."
Bà thợ Rèn là người la lớn nhất. Trước đây, dân làng còn nhớ, chính bà ta đi đêm, chắc cũng đi nhảy sôn-đố-mì, bị hiếp nằm bất tỉnh sau đồng. Nhờ ông Hội Thượng đã kịp thời cho thuốc thang mà qua cơn. Còn anh Còm, làm nghề lưới, có con giữ trâu cho ông Hội Thượng, đã nghịch đu sừng trâu, bị té xóc chút xíu lòi ruột, ông Hội Đồng cũng thuê ghe cho đem lên nhà thương Huế cứu sống.
"Giết nó. Bà con ơi, giết nó."
"Xông vô."
Hô xông, hô giết ầm ĩ cả buổi vẫn không bắt được ai. Cả nhà ông Hội đã im như thóc, cửa chính đóng kín mít. Anh du lích làm ra vẻ hiền hòa:
"Cách mạng sẽ có cách để tên địa chủ này phải tự kể tội mình ra với nhân dân. Xin đồng bào trở về, chỉ cần để một vài người ở đây canh chừng, đừng để nó trốn đi..."
Mệ Ủy xung phong:
"Để tui. Tui nằm vạ ở cửa coi nó đi đằng trời. Nó sẽ không dám mở cửa..."
Nói là làm. Mệ Uỷ từ từ nằm dài ra sân, cởi cái quần đắp ngang người và phần dưới thì tênh hênh, chỉ thấy toàn da là da bọc xương, nhăn nhúm!
Người lớn cười, vỗ tay, con nít xúm trong xúm ngoài, coi, háo hức, hăm hở. Có đứa con nít nghịch, con tới gần, cúi xuống, sờ một cái:
"Có chi mô nà. Trụi lủi, nhớp quá."
Thằng nữa:
"Thúi hoắc. Mụ ni ba năm chưa tắm bây hè."
Người lớn kéo bọn con nít ranh ra. Nhưng đám đông vẫn đứng hoài, con nít thì vỗ tay la ó rầm trời.
Mệ Ủy không chỉ cởi quần hóng gió cho mát đâu. Mệ bắt đầu chửi, đào xới từ tông tích họ hàng nhà ông Hội. Sao mà mệ nhớ tên từ ông cố, ông sơ, tam họ tứ đại nhà ông Hội, kêu, chửi từng tên vanh vách, đào từ mồ cụ sơ, cụ Cố cho tới đứa cháu nội vừa chết non. Anh em, họ hàng ai ra sao, thằng nào léng phéng với con mụ nào trong làng, có con rơi con rớt, thằng nào nghèo mà nhờ làm việc thất đức mà xây nhà xây cửa, xây mồ xây mả cha ông. Ông Hội là nhiều tội nhứt, kể cả tội trời đánh không tha là đã làm cho một cô gái trong làng chửa hoang, không nhìn, cô gái ăn tim trái mạt sát mà chết.
Ngoài độn cát, chỉ mọc có mỗi thứ cây là cây mạt sát, trái hình thoi, tròn như trái cau, ở giữa có một đường tim màu vàng nhạt. Ăn trái không sao, nhưng đụng vào giải tim thì chỉ mươi phút sau là tắt thở.
Còn bà Hội, theo bài chửi của mệ Ủy, là một co gái đi mót lúa, bị tên địa chủ ác ôn đè cho năm lần bảy lượt ngoài ruộng mà phình bụng, bỏ làng trốn đi. Ba năm sau, cô ta bồng thằng con trai về, vô thẳng sân nhà ông Hội mà chửi, thề độc thề địa nếu không nhận, bà vặn cổ thằng con rồi tự tử chết cho cả nhà ông tuyệt tử tuyệt tôn. Bà làm ma ở ngay cái cây trước nhà để canh cho trong nhà không có một con đàn bà một đứa con nít nào vô lọt. Lấy vợ vì kẹt, ông Hội cũng có thêm hai ba nàng hầu.
Mệ Uỷ càng chửi càng hăng, toàn chuyện lạ tai chưa hề nghe nhưng khi nghe rồi thì cũng nhập vô người. Một bà:
"Mệ Ủy chửi đúng quá. Chuyện ni tui cũng có nghe."
Một bà già:
"Tui có chộ bữa nớ, chuyện xẩy ra trong sân nhà ni chớ mô."
"Thằng địa chủ ni nhứt dịnh phải trả nợ máu."
"Nợ máu."
"Bắn cái đùng."
"Đâm mù làm thằng chột."
"Lắt dái luôn cho rồi."
Bọn con nít được dịp nói tục cho sướng miệng.
Đám đông thay nhau, về rồi tới, tới rồi về, lúc nào cũng có người chạy rần rật ngược xuôi, bu coi mệ Ủy nằm vạ.
Ba ngày, mệ bất kể thằng con trai sống chết. Có người tới kể cho anh Ủy nghe. Tuy không nói được, nhưng anh ứa nước mắt. Anh vẫn thương mẹ anh vô cùng.
Sang ngày thứ tư thì đám đông kéo qua nhà ông Trùm Trít. Mệ cũng nằm vạ kiểu lột quần hóng mát. Người lớn con nít vẫn còn nô nức chờ. Nhưng chỉ tới chiều tối hôm đó là trời mưa. Vậy là hết chuyện!
Mùa mưa, rồi lụt lội, kéo dài mấy tháng trời. Cách mạng đụng mưa cũng xìu. Dân nghèo phải đem sắn khoai, mắm trữ trong lu ra ăn. Của nhà giàu, nhờ công lao mệ Ủy nằm vạ mà thu được thì lọt đi đâu mất, dân chỉ vỗ tay là sướng rồi. Nhiều người trong làng tự nhiên mất tích. Lâu lâu mưa xối, bỗng thấy một cái đầu, một cái chân, bàn tay người lòi ra khỏi cát. Ngoài sông, lâu lâu lại có vài ba xác nổi lên, tấp vào bờ.
Ngoài mệ Uỷ, ngay từ hồi còn trong Trấn Hải Đài, con bé còn có hai người bạn già, đó là ông Trùm Gà, ông Trùm Vịt ở tận Doi, chỗ miếng đất cụt doi ra sông. Hai anh em ruột chỉ làm nghề chài trên sông, không đi biển.
Chính ỏ doi đất lấn ra sông này, con bé đã nhìn thấy mệ Ủy giao những cái lồng bịt vải kín mít xuống ghe cho các lái buôn. Ông Trùm Gà cười, miệng móm xọm, chỉ còn một chiếc răng đung đưa, nói: "Rắn đó."
Thời đầu cách mạng mùa thu, có bữa con bé Mi Ki theo hai ông Trùm đi coi mấy xác người vừa bị Việt Minh về xử tử đêm trước, khi thấy cái đầu người bị cắt treo trên cây, con bé bỗng sợ quá khóc ré lên. Ông Trùm Gà vội bịt mắt con bé, bồng nó lên, đem ra sau Sáo, chỗ doi đất mà người ta rào sáo là tre, từng hàng dưới nước để lùa cá.
"Đừng sợ. Đừng sợ có Ôn nì. Có ôn."
Con bé nép đầu vào ngực ông già. Ông có cái mùi hoai hoai, của làn da đồi mồi dơ, của thuốc rê, quần áo cũ rách, hòa với cái mùi già nua, mùn mục, nhưng với con bé đã thành cái mùi thân thuộc.

Thấy con bé thút thít lâu quá, ông Trùm Vịt bỏ con bé vô cái thúng lớn trét chai, bơi ra giữa sông bằng hai cái chèo ngắn. Còn ông Trùm Gà cũng ngồi trên cái thúng trét chai dân Thuận An thường dùng thay xuồng nhỏ, tay cầm hai cái dùi gỗ, gõ gõ: lóc cóc, lóc cóc. Cá nhảy vô, cá lùa vô... Ông Trùm Gà hát bài đám tang cá voi của dân làng mỗi khi có đám cá Ông....
"Hai con cá phướn dẫn đường
Ông tấp vô sau
Ới ông ơi, trời sầu đất thảm
Gió mưa sụt sùi
Ới Ông ơi, Ông đi mô mà bụng tui đau ruột tui thắt
Ông ui là ông ui, hu hu hu hu....
Ê!
Bà nớ ơi,
răng bà nằm chảng hảng chàng hang
Tui giận tui xâu mũi mô mũi nấy
bằng cái đùi chống cựa (chống cửa)....
Bài hát bằng cái giọng ngọng líu ngọng lo của ông Trùm Gà, vừa thảm thương vừa tục tĩu. Con bé hồi đó làm sao hiểu hết, nhe răng cười. Biển mặn gió muối nhuộm da con bé đen ròn, nắng phơi tóc con bé vàng hoe. Lóc cóc, lóc cóc. Cá lớn cá nhỏ...lóc cóc, lóc cóc...Một con rắn nước lội lăng quăng, ông trùm Gà đưa cái vợt vớt lên. Con rắn nước nhỏ, dài, mình xám, cổ hồng nhạt vùng vẫy muốn thoát. Ông trùm Gà cầm đầu con rắn, cái nọc thè ra. Ông nhứ nhứ để cho cái nọc con rắn mổ mổ tới trước và ông chơi với nó một hồi xong thả xuống nước. Con rắn lại bơi loăng quăng. Ông tiếp tục hát.
"Vè vè vè ve, nghe tui kể cái vè nói ngược
Con chim làm tổ dưới nước
Con cá làm tổ trên cây
Người thác đi cày, người sống nằm dưới lỗ
Thuyền thì chạy bộ, ngựa chạy dưới sông
Một bầy chim cưỡng vẫy vùng dưới nước
Ba mươi đời nói ngược ai đã dễ nghe
Con voi ấp trứng sau hè
Con gà cao vành đễ cượi (cưỡi)
Con heo ăn cỏ Đồng Hới
Con chim ăn cám trong chuồng
Tháng ba múc nước lên nguồn
Tháng tư đem bè chở lụt
Thợ Rèn nấu xôi cúng Bụt
Thầy tu đập sắt cả ngày
Thợ mộc múa hát vỗ tay
Vợ ông Ba lục đục vác gươm đi hầu
Ông Ba ở nhà têm trầu đãi khách
Ngoài đồng che phên che phách
Trong nhà cắt cấy ùa ùa
Con tôm ăn cả con cua
Một bầy cá nhám nhảy ùa lên ăn
Ăn rồi đạp trốt mèo săn
Con chuột ngoẳng ngoảng muốn ăn con mèo
Bao giờ cám lại ăn heo
Chuột lại ăn mèo cỏ lại ăn trâu
Gà con tha quạ diều hâu
Gà con tha cả ghe câu lên trời...
Bài vè vẻ vè ve cứ thế, ông Trùm Vịt hát mãi, hát mãi, trở đi trở lại cho tới khi con bé nghẹo đầu, trong cơn mơ giữa giòng sông, nghe tiếng nước vỗ róc rách, róc rách, nghe tiếng gõ lóc cóc, lóc cóc và cá nhảy, cá nhảy... Con bé cũng mơ thấy giữa đàn cá có một con rắn nước, nhiều con rắn nước, bơi và nhảy theo. Rồi hồ cá mặt trăng, đàn cá trắng bóc, nhỏ li ti, nổi lên từng về đớp đớp ánh trăng vàng rực lóng lánh trên mặt nước... Mặt nước vỡ, ánh trăng vỡ, vì một con rắn nước đang lăng quăng bơi lội.
Con rắn nước màu hồng. Có phải là nó không, con ngựa hồng mệ Ủy đang tìm kiếm?
. . .
Rồi cách mạng mùa Thu tàn nhanh. Việt Minh rút ra bưng. Quân Pháp trở lại. Suốt mấy năm Trấn Hải Đài hoang tàn. Ngày bị Tây hành, lo trốn tránh không làm ăn gì được, đêm, mấy ông Việt Minh về giết chóc, thu thuế nên dân làng đói nhăn răng.
Trong Trấn Hải Đài có rắn, có cây củ, không phải nuôi, không phải trồng. Nhiều lối đi dưới hào thành, nhiều chỗ tường thành bị đục đẽo, lấy đá, hoặc làm đường bí mật cho trộm đạo. Duy nhứt cây bồ đề cổ thụ vẫn trơ trơ, không ai dám đụng.
Dân làng đồn, kẻ trộm giỏi nhứt, bạo gan nhứt làng là chú Nốt, đã dám cầm búa chặt rễ cây. Búa quặt lại chém một nhát chính ngay giữa trán, vết thương không phạm sâu, nhưng cứ làm mủ hoài, rịt đủ thứ thuốc cũng không lành mà còn biến dạng như cái đầu rắn ngóc lên mới ghê. Về sau nghe lời bà đồng, đem nhang đèn, bánh trái đặt dưới gốc cây mà khấn, dập đầu chịu tội. Lúc cúng có một con rắn từ trên cây bò xuống, bò ngang qua mâm lễ vật, rồi biến vào trong bụi cỏ tranh. Mấy ngày sau, vết thương chú Nốt khép miệng. Từ đó, không còn ai dám đụng tới cây bồ đề cổ thụ nữa.
Anh Ủy bệnh đã đến hồi hết thuốc chữa. Mỗi ngày anh lên cơn cỡ chục lần, lần nào cũng như con rắn, trợn mang phùng mắt, phun phì phì, cả thân hình lúc thường thì cứng đơ, lúc lên cơn thì quằn quại như muốn bò muốn trườn. Da thịt anh nổi vảy như da rắn.
Mỗi khi nhìn con trai lên cơn, mệ Ủy nghiến răng, gầm lên. Mệ nhất quyết phải tìm cho ra con hồng xà có lằn than đỏ cháy trên lưng. Trong làng có người trêu ngươi mệ, nói, con rắn bữa bò qua mân lễ vật anh Nốt cúng, đúng y như con rắn mệ kiếm tìm.
"Có vồng than hồng cháy trên lưng?"
"Có."
"Nhỏ và dài?"
"Y rứa."
"Mình vàng bụng trắng."
"Thì chộ rứa."
Vậy là mệ Uỷ lại lấy cây roi bằng đuôi cá đuối quất túi bụi vào đám rễ cây bồ đề, vừa quất vừa nguyền rủa.
Trời đã qua đông, xuân tới. Cây cỏ trong Trấn Hải Đài tuy bị phá tán cũng vẫn đâm chồi, nẩy nở tươi tốt. Nhưng bịnh tình anh Ủy thì đã tới phút cuối rồi. Mệ Ủy nấu cháo rắn cho anh. Cháo đút vô miệng thì trào ra. Anh phun phì phì một cái, tắt thở.
"Con bỏ mạ mà đi răng đành con ơi..."
Người ta phải trói mệ lại mới bỏ được anh Ủy vô hòm. Trong căn nhà cột gỗ lim, thấp, tăm tối, đã từ lâu rồi có hai cỗ quan tài gỗ, mệ Ủy sắm lúc còn tiền bạc dư giả, có lúc sa cơ lỡ vận, cũng không chịu bán mà ăn.
"Mệ nớ điên chi mà điên, mới tàng tàng thôi chơ khôn tổ cha".
Người làng cười cười khi nói về Mệ. Nhưng khi anh Ủy chết rồi thì mệ Ủy điên thật. Mệ thường quấn con rắn chết lòng thòng nơi cổ, vừa đi vừa ca hát dù giọng khào khào không ra hơi.
Một ngày nọ, dân làng nhìn thấy mệ cầm cái mác đứng trên thành, chặt tán loạn vào đám rễ cây bồ đề. Mệ ôm mớ rễ nhỏ chặt được đem về nhà. Người làng rình coi, thấy mệ chất đống rễ lên chiếc giường trước đây anh Ủy nằm bệnh, rồi mệ đi quanh, la lối:
"Hồng xà, trả con cho ta. Trả con cho ta... Úm ba la xi ma ta la, úm ba la...rắn hồng biến ngựa hồng chở con ta...Úm ba la xi ma ta bà cô la..."
Đêm đó, căn nhà bốc cháy. Mệ Ủy chạy ra ngoài, xõa tóc, tay cầm thanh la, tay cầm dùi gõ. Mệ không la tiếp cứu chữa lửa, mà chăm chăm nhìn ngọn lửa hừng hực chờ đợi.
"Bắt nó lại. Rắn hồng. Ngựa hồng..."
Bất chợt, mệ Uỷ la. Một con rắn từ đám lửa quăng mình lên tường thành, biến mất. Mệ Ủy chạy theo. Người ta giữ mệ lại. Có thể đó chính là con hồng xà đực cháy đỏ một vồng lửa trên lưng mà mệ vẫn lùng xục. Căn nhà không cứu chữa được, cột kèo gỗ lim, chiếc hòm còn lại, tất cả cháy ra tro. Mệ Ủy quả quyết bầy rắn hồng không cháy, thoát được. Mệ phải đi tìm chúng.
Chỗ ở sau cùng của mệ Ủy là ngay dưới hai cánh cửa thành khép kín với một ổ khóa câm lặng, không có mắt nhìn, không có tiếng nói. Một chiếc chiếu trải nằm, một cái chăn đắp và bị lát rách đựng mớ quần áo cũ người ta cho. Ban ngày, mệ đi từng nhà, đứng ngoài sân chìa tay xin, không hé miệng, cứ đứng hoài khi nào có cho đồ ăn mới đi. Ai cho chi ăn nấy, con nít nghịch bỏ lá, bỏ đất cát vào, cũng nhai, cũng nuốt.
Anh Uỷ mồ yên mả đẹp. Mệ Uỷ không còn sức phá phách. Cây bồ đề vẫn không ai dám đụng tới, những chùm rễ ngày càng chằng chịt hơn, bò đến cả mấy bậc cấp gần cột cờ, nơi có bệ thờ ông Lê Sỹ.
Con bé Mi Ki không còn lần nào được trở vô thăm lại Trấn Hải Đài. Năm đó, gia đình ông Thông rời Thuận An về Huế. Con bé chỉ được phép đi từ giã ông Trùm Gà, Trùm Vịt. Hai ông già khọm và một đứa bé nhỏ nhít ôm nhau.
"Con nhớ mấy Ôn."
"Hôn hóc. Hóc chi dị rứa. Bữa mô hai Ôn lên Huế thăm Miki."
Khóc dị lắm. Nhưng mắt hai ông trùm đỏ hoe. Hai ông cho con bé mấy cái vỏ ốc, dặn:
"Khi mô dớ biển thì kê lỗ tai vô sát mà nghe, có tiếng sóng biển nơi tề, sóng biển cũng có mà tiếng nước rào cũng có cho coi. Hí, dớ hí."

Hai ông trùm Gà trùm Vịt thiệt thà không biết nói dối.
Khi đã lớn, qua tuổi mười ba, mấy con ốc vẫn nằm trên bàn học. Nhớ Thuận An, nhớ hai ông Trùm, cô bé ghé sát tai vào vỏ ốc, nghe được tiếng sóng biển, tiếng sông nước rì rào.
Con bé nhớ khoảng sân rộng lát xi măng với hai cây sầu đông rất già, cành lá rậm rạp che bóng rợp không cho nắng chiếu xuống. Nhớ cái hầm dê ngập máu dân làng Thuận An, nhớ Vọng Hải Đài trên lầu ba, leo lên đó thì có thể nhìn thấy thuyền bè cả chục dặm xa ngoài mặt biển. Nhớ những ổ rắn con lúc nhúc, mềm, trơn, mầu hồng non xinh xắn, nhớ những con rắn không biết tên gì nằm khoanh tròn ở bậc cấp lim dim phơi nắng mà con bé chỉ cần tránh qua một bên là bước đi, không sợ bị cắn mổ.
Mười tám tuổi, những ngày lễ nghỉ học, đèo nhau bằng xe đạp về Thuận An tắm bể, Miki có vô làng thăm. Lính đã đóng trong Trấn Hải Đài, không cho vô. Ra sáo thăm hai ông Trùm, chỉ thăm hai cái mộ cát lúp xúp. Hai cô bạn ấu thơ là Kệ với Thụy đã lớn, vẫn nghèo. Có ra biển tìm, gói theo mấy củ khoai luộc, con khô mực nướng. Có vô làng ngủ đêm với hai cô bạn.
Đêm hè, trải chiếu nằm ở sân quay về phía bờ. Nước sông rì rào, rì rào nhắc. Nhớ ngoài Doi, Sáo, hai cái miệng cười méo mó của hai ông Trùm. Rồi ở sông, phía cầu Thương Cuộc có tiếng động, lắng nghe. Bên tai, Kệ cười khúc khích:
"Ma ra đó."
"Ừ, con ma ra nó nhảy lên cầu, ngồi khóc đó tề. Mở mắt là chộ liền."
Thụy gắt gỏng:
"Tầm bậy nữa đi. Lớn rồi mà còn sợ ma, tin chuyện ma nữa"
Mi Ki, chỉ chờ có dịp đó ôm chặt lấy hai đứa bạn nhà quê. Cô biết rất rõ, tiếng động đó chỉ là tiếng cá quẫy giỡn trăng trong đêm.
Quên, có hỏi mệ Ủy đâu không thấy. Kệ nói:
"Chết lâu rồi, cũng trên trăm tuổi lận."
Thụy:
"Rứa mà bữa đưa đám mệ Ủy đông quá sức. Nghe nói lúc đậy nắp áo quan có con rắn học trò bò vô nằm khoanh tròn dưới quan tài. Bởi nghe đồn rứa nên người ta ùn ùn đi coi."
"Ủa, mệ ủy có nhà."
"Về sau có. Cháu mệ đâu ở xa tìm tới, dựng lại cho mệ cái nhà tranh nhỏ ở trên miếng đất nớ."
"Mệ có đi bắt rắn nữa không?"
"Không biết."
"Có đi tìm mấy con ngựa hồng...à rắn hồng không?"
"Cũng không nghe noái đến mi nờ. Thằng cháu đó ở luôn với mệ, nghe noái cháu xa lắc mà thảo lắm. Thằng nớ mê con Lệt ở dưới làng Eo, năm ngoái mới cưới nhau, chừ ở cái túp nhà tranh nớ chớ mô."
Kệ:
"Rứa mà cái mụ Xoài đã tra rụi rồi mà còn tòe loe toét loét nói mệ Ủy bị rắn cắn chết. Rắn mô? Trong Đài lính ở, có con rắn mô còn sống sót cũng trốn chui trốn nhủi bây nờ."
Thiệt kỳ. Vậy ra chuyện hồi thơ ấu của ba đứa là chuyện cổ tích?
....................
Đó là chuyện con bé Mi Ki thời ở làng Thuận An. Lớn lên, tôi lại rất sợ rắn. Trường tổ chức đi trại ở Đồi Thiên An, tôi đã không dám bước vô những lùm cỏ vì sợ đạp nhằm rắn. Con bé Mi Ki đứng đâu đó, trước mặt, sau lưng, trong đầu, cười nhạo. Hình như chỉ có những con rắn của con bé ở Trấn Hải Đài Thuận An, mới là rắn hiền, rắn thân, rắn bạn. Còn những con rắn nơi khác, những con người nơi khác, như chính tôi, thật khó tin cậy nhau.
Đã xa quá xa, có thể không bao giờ còn nhìn thấy Trấn Hải Đài nữa. Ở Hoa Kỳ, sau mấy trận lụt vừa qua, tôi đọc báo thấy biển đã nuốt chửng mất khu rừng dương làng Hòa Duân. Lầu nghỉ mát nhà vua nay đã không còn . Con đê đã vỡ. Một phần Thuận An đã không còn. Một cửa biển mới đã mở ra, dài cả cây số. Chẳng biết Trấn Hải Đài bây giờ ra sao. Những con rắn hồng của mệ Ủy xa xưa có còn không?
Mệ Ủy chết, hai ông Trùm chết, ông Cửu Thượng, ông Trùm Trít chết. Nhiều người chết lắm, tôi biết. Nhưng rắn lột xác sống đời mà. Chúng đâu cả rồi? Sao từ lâu, ngay trong những giấc mơ, tôi cũng không thấy chúng?
Việt Báo Xuân Tân Tỵ 2001



Bay Lên Đầu